Dựa vào tương quan giữa lồi cầu và hõm khớp, có thể phân loại trật khớp thái dương-hàm (TDH) như sau:
- Trật khớp ra trước. - Trật khớp lui sau. - Trật khớp ra ngoài. - Trật khớp vào trong. - Trật khớp lên trên: vỡ hõm khớp, lồi cầu lọt vào hố sọ giữa.
Các trường hợp trên gặp trong chấn thương hàm mặt, có thể kèm gãy lồi cầu hoặc gãy các vị trí khác của xương hàm dưới.
Để đơn giản, ở đây chúng ta chỉ xét đến trật khớp thái dương hàm ra trước cấp, không bao gồm các trường hợp chấn thương.
Trật khớp TDH ra trước cấp thường xảy ra sau khi ngáp lớn, cười lớn với biên độ há miệng quá mức, hoặc trong một can thiệp nha khoa đòi hỏi há lớn và kéo dài (nhổ, trám, nội nha, mài cùi… răng cối).
Xử trí: - Thái độ xử trí: Không hốt hoảng, xem đây là một tình huống bình thường cần xử trí cấp cứu nha khoa, “khớp trật ra được thì sẽ nắn vào được”, bình tĩnh, tự tin chuẩn bị xử trí là đã đạt được 50% thành công. (chẳng qua việc này chúng ta không thường xuyên gặp phải mà thôi!)
- Hỏi BN: trật lần đầu hay đã từng trật nhiều lần, BN trật nhiều lần thường rất dễ nắn và chính bản thân BN cũng có nhiều kinh nghiệm trong việc này.
- Nhìn BN:
+ Khuôn mặt: gầy (dễ nắn hơn BN có khuôn mặt …mập, cường cơ mạnh), từ đó có thể quyết định nhanh phương pháp nắn khớp cho BN của mình. + Xác định BN trật khớp 1 bên (bên phải hay trái) hoặc cả hai bên.
Trật khớp 1 bên: Cằm lệch về bên lành (bên không trật), BN không ngậm miệng lại được. Trật khớp 2 bên: BN há, không ngậm miệng lại được, cằm cân xứng trên đường giữa.
- Gây tê: có một số tác giả cổ suý cho việc gây tê trước khi nắn, cho rằng việc này làm giảm đau cho BN, tránh co thắt cơ nâng hàm do phản xạ đau, do đó sẽ dễ nắn hơn, và thấy rằng sau khi gây tê vào mô mềm quanh hõm khớp xong, một số BN có thể tự giải quyết vấn đề trật khớp (miệng ngậm lại được, không cần nắn, cái này CK cũng đã gặp), tuy nhiên , đối với trật khớp cấp CK chưa bao giờ phải gây tê cho BN.
- Nắn khớp:
Sau khi nắn thành công, giữ hàm dưới BN ở tư thế lồng múi tối đa và bảo BN không được há (nếu đã điều trị nha khoa xong), băng cằm-đầu hay băng kiểu Barton (xem hình) cho bệnh nhân (tốt nhất bằng băng thun dãn, mua ở quầy thuốc tây), dặn bệnh nhân không há lớn trong vòng 6 tuần.
Đối với các trường hợp trật khớp đã lâu ngày, áp dụng các biện pháp nắn khớp thông thường thường không hiệu quả, chúng ta nên chuyển BN vào BV chuyên khoa RHM để tiến hành các phương pháp nắn chỉnh khớp…”nặng đô” hơn. (không thuộc phạm vi của ... cẩm nang này).
Một điều quan trọng khi tiến hành nắn khớp là tránh được lực co thắt của các cơ nâng hàm. Chúng ta thử nghĩ rằng, nếu xương hàm dưới không có các cơ này bám vào thì khi trật khớp, chúng ta chỉ cần thắng các lực của dây chằng khớp là đã nắn khớp được dễ dàng. Về vấn đề này sư huynh CaKhia, sư tỉ kienvang và sư đệ Cú Vọ đã có chiêu thức…đánh lạc hướng BN bằng nhiều cách. Lực của cơ nâng hàm (gồm cơ cắn, cơ chân bướm trong và cơ thái dương) thường đạt khoảng 70kg/cm2, cho nên tội tình gì mà chúng ta phải gồng sức để chiến thắng lực này như sư tỉ xoaituqui cho mệt (công nhận công lực của sư tỉ thật thâm hậu!).
- Tư thế BN: không nhất thiết BN phải ngồi thấp, lưng dựa vào tường để chúng ta đứng trước mặt BN mà xuống tấn!!!;…. mà như Cú Vọ đã trình bày, BN có thể nằm trên giường, trên băng ca, ghế nha; ngồi trên ghế dựa, ghế đẩu, xe lăn….cũng đều được. (Nếu cứ bắt BN ngồi thấp mới nắn được chắc mấy BN bị chấn thương hoặc bệnh lý nằm một chỗ của các chuyên khoa khác…chắc CK…pó tay khi bị …réo đi ...nắn khớp trật wé).
- Tư thế BS: đứng (đôi khi có thể ngồi) trước hoặc sau BN tùy kỹ thuật nắn.
- Kỹ thuật: Thật ra có khá nhiều… chiêu thức nắn khớp, tùy từng trường hợp cụ thể mà chúng ta áp dụng, miễn hiệu quả và tiện lợi là được. Có thể chia thành các kỹ thuật nắn khớp trong miệng, ngoài mặt và kết hợp cả hai. Lưu ý: nếu BN trật khớp 1 bên, chỉ cần áp dụng kỹ thuật đối với bên trật, còn trật khớp 2 bên thì có thể áp dụng kỹ thuật đối với 1 bên trước, thường thì sau khi thành công 1 bên, bên kia sẽ rất dễ dàng nắn vào (hoặc có thể tự động vào).
Nắn khớp trong miệng:
- Kỹ thuật 1: Đây là kỹ thuật mà nhị vị sư tỉ xoaituqui và kienvang đã đề cập tới. Kỹ thuật này còn gọi là kỹ thuật Hippocrates (xem hình). Thực vậy, ông tổ của ngành y đã giới thiệu kỹ thuật này của mình trong y văn cổ và vẫn còn được…ứng dụng cho đến ngày nay. Tuy nhiên, nhược điểm của kỹ thuật này là gây đối kháng trực tiếp và dễ kích thích sự co thắt cơ nâng hàm, do vậy thường phải dùng lực mạnh, và sự thành công phụ thuộc vào việc…đánh lạc hướng BN.
[You must be registered and logged in to see this image.] Kỹ thuật Hippocrates
- Kỹ thuật 2: Đây là kỹ thuật đã được sư huynh CaKhia thực hiện và mô tả. Tuy nhiên, cần lưu ý là với kỹ thuật này, tư thế BS nên là đứng sau BN hơn là đứng trước (nói chung thì đứng trước cũng được, hôm nào sư huynh CaKhia thử đứng sau BN xem sao?), và khó thành công trong trường hợp BN co thắt cơ mạnh.
- Kỹ thuật 3: Là kỹ thuật được Cú Vọ thực hiện. Bản thân Bang chủ cũng đã cổ súy kỹ thuật này và CK- nếu phải nắn khớp trong miệng cho BN thì CK cũng sử dụng kỹ thuật này, và thành công trong tất cả các trường hợp trật khớp cấp, kể cả các BN có khuôn mặt… mập, hoặc co thắt cơ rất mạnh, và chỉ cần một tay trong miệng là đủ (xem hình). Cú Vọ đã mô tả kỹ thuật khá kỹ lưỡng, điều cần bàn ở đây là: Kỹ thuật dựa trên lực xoay đồng thời, đó là vùng cằm xoay lên trên và lồi cầu xoay xuống dưới, lui sau, với tâm xoay ở vùng hậu hàm. Điều này giúp hỗ trợ bằng hợp lực cho sự đi xuống và lui sau của lồi cầu, đồng thời tránh được một phần đối kháng với hướng lực của cơ nâng hàm so với kỹ thuật 1, và với động tác chủ động há đóng hàm dưới cùng với đánh lạc hướng BN trước khi thực hiện kỹ thuật, đã tạo…đà cho việc thực hiện kỹ thuật được thành công mà tốn rất ít công sức, và tiện lợi ở chỗ BN có thể nằm-ngồi tuỳ ý (lưu ý là tay phải thực hiện động tác, tay trái giữ đầu BN- đối với BS thuận tay phải).
(Source: Chun & cs. Eu J Emerg Med. 13:72–75 c 2006 Lippincott Williams & Wilkins.)
- Kỹ thuật 4: Được giới thiệu bởi Lowery & cs. năm 2004. BS đứng trước BN, sử dụng hai tay (xem hình), hai ngón cái tựa vào bờ dưới XHD vùng cằm, các ngón còn lại đặt vào mặt nhai răng cối. Dùng lực xoay từ cổ tay, với hướng lực lên trên từ hai ngón cái và hướng lực xuống dưới từ các ngón còn lại. Cơ chế của kỹ thuật này tương tự kỹ thuật 3, nhưng kỹ thuật này có nhược điểm là khi nắn thành công các ngón tay trong mịêng sẽ bị …cắn vào răng hàm trên, nên thường phải quấn gạc bảo vệ trước.
Lưu ý: Đối với các kỹ thuật trong miệng trên, ngón tay trong miệng nên được quấn gạc trước để tránh đau do …tì vào răng khi nắn.
Nắn khớp ngoài mặt:
- Kỹ thuật 5: Kỹ thuật nắn khớp trực tiếp.
Đây là …độc chiêu…”nhất dương chỉ” mà Cú Vọ đã nói đến. Với độc chiêu này, Bang chủ đã từng…danh trấn giang hồ, làm các đồng nghiệp (và cả CK nữa) nhiều phen kinh ngạc (sau này CK đã lĩnh hội được chiêu thức này nên cũng từng làm một số người ngạc nhiên). Chỉ thấy Bang chủ tới trước mặt BN, sờ sờ lên má, và 5 giây sau là xong, BN hết trật!!! Chẳng cần…mang găng, quấn gạc gì ráo. Thực ra kỹ thuật này đã từng nói đến trong y văn, nhưng nhiều người không tin được sự…lợi hại của nó nên đã không áp dụng. Tuy nhiên, CK nhận thấy rằng kỹ thuật này đặc biệt hữu hiệu và tiện lợi nếu bệnh nhân có khuôn mặt gầy. Bs có thể đứng trước hoặc sau BN, đặt ngón cái lên vùng trước tai bên trật, sờ tìm đầu lồi cầu (cực ngoài), dùng lực ấn ngón cái vào đầu lồi cầu xuống dưới và lui sau! Nhanh, đơn giản, hiệu quả; các ACE thử xem!
[You must be registered and logged in to see this image.] (Source: Chun & cs. Eu J Emerg Med. 13:72–75 c 2006 Lippincott Williams & Wilkins.)
- Kỹ thuật 6: Được giới thiệu bởi Chen & cs vào năm 2007. Kỹ thuật này dựa vào thực tế lâm sàng: Khi trật khớp, có thể sờ thấy mỏm vẹt một cách dễ dàng ở ngay dưới thân xương gò má! Bs đứng trước BN, ở bên trật (bên cần nắn chỉnh) đặt ngón cái sờ ngay bờ trước mỏm vẹt, các ngón còn lại tựa ở mỏm chũm; ở bên kia ngón cái sẽ được đặt tựa lên thân xương gò má, các ngón còn lại ôm ở góc hàm. Thực hiện nắn chỉnh bằng động tác xoay XHD qua bên cần nắn chỉnh, bằng cách đẩy góc hàm bên kia ra trước với ngón cái tựa vào thân xương gò má và đồng thời ở bên cần nắn chỉnh đẩy ngón cái vào mỏm vẹt ra sau nhờ các ngón còn lại tựa vào mỏm chũm (xem hình).
[You must be registered and logged in to see this image.] Bên cần nắn chỉnh.
[You must be registered and logged in to see this image.] Bên đối diện với bên cần nắn chỉnh (bên kia).
Hình kỹ thuật 6: Cách đặt ngón tay và hướng lực (hình vẽ ở BN bị trật khớp cả hai bên). (Source: Chen & cs. Ann Plast Surg 2007;58: 105–108)
- Kỹ thuật 7: Kỹ thuật này đã được tiểu muội Kitty thuật lại từ việc xử trí trật khớp của một cao thủ giấu mặt, "chêm gòn ở răng cối rồi cho BN cắn lại". Tuy nhiên, nguồn gốc của kỹ thuật này được Scamahorn trình bày vào năm 1989, trong đó tác giả đặt một nút bấc nhỏ giữa các răng cối phía xa hàm trên và dưới bên trật, cho BN cắn lại rồi sử dụng lực tay nâng vùng cằm lên trên. Cơ sở chủ đạo của phương pháp này: đặt nút bấc ngoài việc chêm ở vùng răng cối để hầu hạ thấp lồi cầu bên trật, thì còn là tạo điểm tựa cho hệ thống đòn bẩy loại I với điểm đặt lực ở bờ dưới XHD vùng cằm cùng với lực cắn lại của BN, nhằm đưa lồi cầu xuống dưới dễ dàng tạo điều kiện cho lồi cầu ra sau vào hõm khớp. Tác giả cho biết chưa bao giờ thất bại khi sử dụng phương pháp này trong việc nắn trật khớp cấp!
Trong việc thực hiện, chúng ta tùy từng trường hợp trật khớp cụ thể mà quyết định áp dụng phương pháp nào cho phù hợp. Có thể sử dụng phối hợp 2 kỹ thuật ngoài mặt và trong miệng đồng thời ví dụ như kỹ thuật 5 kết hợp kỹ thuật 3 khi chúng ta thực hiện một kỹ thuật không hiệu quả.